Thứ Tư, 23 tháng 4, 2014

BẠN HIỂU GÌ VỀ MÀNG TRINH ?

(lời comment về bài viết : TÔI SẼ KHÔNG CƯỚI MỘT CÔ VỢ CÒN TRINH của tác giả doflamingo) Màng trinh không hề "mỏng dính" như em nghĩ đâu , thậm chí có loại màng trinh còn rất dày - nó cản trở gây khó khăn rất nhiều cho các "cậu nhỏ" trong sứ mạng thám hiểm hang sâu . Tôi đồng ý với em một vài quan điểm mà em nêu ra trong bài . Tuy nhiên quan niệm về giá trị của trinh tiết theo em và một số không nhỏ ở giới trẻ ngày nay còn chưa đúng đắn lắm . Trong lời còm này tôi không bàn về vấn đề đó , mà chỉ nói riêng về kiến thức y học trong cái gọi là màng trinh : Màng trinh con gái có nhiều dạng : Dạng vòng , dạng vách , dạng sàng v.v... Tất cả nó đều có màu hồng nhạt và nằm sâu cách âm đạo "cửa mình" từ 2 - 3 cm . Trong bào thai bé gái - màng trinh được hình thành khoảng 2 tháng sau kể từ khởi điểm trứng được thụ tinh . Đó là một lớp mô mỏng che phủ âm đạo (ở thời kỳ này) nó tự động phân chia không hoàn toàn trong giai đoạn trước khi sinh , và trong cái quá trình mô bào phân chia đó nó hình thành nên MÀNG TRINH . Tuy nhiên theo thống kê có khoảng 1% bé gái sinh ra "bị xui xẻo" vì lớp mô này đã phân chia hoàn toàn (bám sát hòa nhập vào thành âm đạo mất tiêu) cho nên hệ quả là đứa bé gái đó đã "mất trinh" ngay từ khi mới chui ra khỏi bụng mẹ . Trường hợp này người ta gọi là MÀNG TRINH OAN . Nếu anh chồng nào gặp người vợ có màng trinh oan thế này mà "ích kỷ" thì thật là ... đau lòng cho cả hai người . Trong xu hướng thời đại ngày nay các phụ nữ "lỡ lầm" thường muốn che giấu quá khứ bằng cách đi vá màng trinh , do đó nhiều cơ sở y tế nắm bắt "thị hiếu khách hàng" bèn trương bảng quảng cáo : "phục hồi nguyên trạng cái ngàn vàng - lẹ làng - thẩm mỹ - không đau" Xin thưa với các bạn trẻ : đó là những quảng cáo láo . Bởi thật ra việc vá lại cái màng trinh là vô cùng khó - hầu như là không tưởng - Vì màng trinh được kết dính làm một với ống âm đạo luôn di động , các mạch máu của nó hình thành rất phức tạp , cho nên màng trinh đã rách thì không thể vá lại (như mấy anh vá ép ruột xe) . Mà thật ra BS chỉ tận dụng niêm mạc lòng âm đạo 2 bên , kéo căng ra để lấy kim "nhíp" khéo làm nó chít hẹp (dính lại một phần) cho đến khi có tay "thám hiểm hùng dũng" nào đó xông vô va chạm thì tức khắc vết khâu sẽ bung rách ra gây chảy máu (sự chảy máu này là chảy máu do rách niêm mạc âm đạo từ vết khâu chứ không phải là sự chảy máu của màng trinh - Bởi màng trinh tang hoang mất xác đâu từ lâu rồi) Và sự vụ giối gian đó có không ít anh chàng "dân chơi" vớ bở hãnh diện cười đắc ý trong bụng rằng thì là ta may mắn chiếm hữu được hàng zin . Ôi cái việc đó thì mặc kệ ai , Ở đây chỉ nói chung về cái vụ vá màng trinh nhằm che giấu quá khứ "hư đốn"này của các em thì không thể nào qua mắt được các BS có kinh nghiệm cỡ như THN , (hihihiii) ... Thôi không nói thêm nữa , nói nhiều sợ bị ném trứng ung quá !

Bạn hiểu gì về bệnh sởi ?

Bệnh sởi là một bệnh truyền nhiễm cấp tính với các triệu chứng : sốt, phát ban, chảy nước mũi, ho, mắt đỏ... bệnh có thể gặp ở trẻ em, người lớn nếu không có miễn dịch phòng bệnh, nó có thể gây thành dịch. Bệnh sởi tuy ít gây tử vong nhưng biến chứng khó lường có thể gặp là: viêm tai giữa, viêm phổi, tiêu chảy, khô loét giác mạc mắt và đôi khi viêm não sau sởi, đặc biệt ở trẻ em suy dinh dưỡng... I. CÁC TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH SỞI: - Khoảng 10 tới 12 ngày sau khi tiếp xúc với siêu vi sởi, những triệu chứng sau đây có thể xẩy ra: 1. Sốt 2. Ho khan 3. Chảy nước mũi 4. Mắt đỏ 5. Không chịu được ánh sáng 6. Những nốt nhỏ xíu xuất hiện với nhân màu xanh trắng bên trong miệng nơi niêm mạc má của bệnh nhân . Những nốt này có tên là nốt Koplik. (BS thường xem các dấu hiệu nốt này để chẩn đoán bệnh) 7. Trong người bệnh nhân mọc ra những đốm đỏ lớn, phẳng, chập vào nhau Diễn Biến Của Bệnh Bệnh sởi thường bắt đầu với một cơn sốt khá nhẹ, kèm theo những triệu chứng như ho, chảy mũi, mắt đỏ và đau cổ họng. Khoảng 2, 3 ngày sau, đốm Koplik nổi lên, đốm này là dấu hiệu đặc biệt của bệnh sởi. Sau đó, bệnh nhân có thể bị sốt cao lên tới 38 hay 39 độ C. Cùng lúc đó, những mảng đỏ nổi lên, thường là ở trên mặt, theo đường tóc và sau tai. Những mảng đỏ hơi ngứa này có thể dấn lan xuống ngực, lưng và cuối cùng xuống tới đùi và bàn chân. Khoảng một tuần sau, những vết nhỏ này sẽ nhạt dần, vết nào xuất hiện trước sẽ hết trước. II. NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH SỞI: - Lây qua đường hô hấp. - Lây trực tiếp khi bệnh nhân ho, hắt hơi, nói chuyến… - Lây gián tiếp ít gặp vì virus sởi dễ bị diệt ở ngoại cảnh. Bệnh sởi gây ra do siêu vi sởi : Morbillivirus . Bệnh này hay lây đến nỗi 90% những người tiếp xúc với bệnh nhân sẽ bị lây nếu chưa chích ngừa. Siêu vi sởi có ở mũi và cổ họng của bệnh nhân. Họ thường đã có thể lây bệnh cho người khác 4 ngày trước khi ban đỏ xuất hiện. Khi bệnh nhân ho, hắt xì, hay nói chuyện, những giọt nước nhỏ xíu có chứa siêu vi sẽ bắn ra không khí và người khác có thể hít vào hoặc những giọt li ti này có thể rơi xuống một nơi nào đó như mặt bàn, điện thoại… Khi ta sờ vào những nơi ấy và đưa tay lên mũi hay miệng là ta đã bị lây bệnh . Một khi siêu vi sởi vào cơ thể bệnh nhân, chúng thường ẩn vào trong những tế bào đằng sau cổ họng và phổi. Sau đó bệnh sẽ lan khắp cơ thể kể cả hệ hô hấp và da. Mầm bệnh: Là virus sởi thuốc họ Paramyxoviridae, virus này hình cầu, đường kính 120 – 250nm, sức chịu đựng yếu, dễ bị diệt với các thuốc khử trùng thông thường, ánh sáng mặt trời, hay… Ở nhiệt độ khoảng 56 độ C thì vius bị diệt trong 30 phút. Virus sởi có hai kháng nguyên - Kháng nguyên ngưng kết hồng cầu (Hemaglutinin). - Kháng nguyên tan hồng cầu (Hemolysin) Khi virus vào trong cơ thể nó sẽ kích thích sinh kháng thể. Bằng kĩ thuật kết hợp bổ thể và kĩ thuật ức chế ngưng kết tiểu cầu… giúp cho chẩn đoán bệnh. Kháng thể xuất hiện từ ngày thứ 2 – thứ 3 sau khi mọc ban và tồn tại lâu dài . Vì thế miễn dịch trong bệnh sởi là miễn dịch bền vững. III. SỨC THỤ BỆNH VÀ MIỄN DỊCH CỦA BỆNH: - Tỷ lệ thụ bệnh 100% ở người chưa có miễn dịch. Lây truyền mạnh trong những tập thể chưa có miễn dịch (nhà trẻ, khu vui chơi , hồ tắm …). - Hay gặp ở trẻ nhỏ 1 – 4 tuổi. Trẻ dưới 6 tháng ít mắc vì có miễn dịch từ sữa của mẹ. - Người lớn cũng rất ít mắc bệnh vì đã có mắc bệnh từ bé. Người lớn nếu mắc bệnh thường là những người ở vùng cao, hẻo lánh, đảo xa… từ nhỏ chưa tiếp xúc với virus sởi. - Bệnh thường phát vào mùa đông xuân. - Miễn dịch sau khi khỏi bệnh là bền vững vì vậy rất hiếm khi mắc lại lần thức hai. - Là bệnh gây suy giảm miễn dịch nên bệnh nhân dễ mắc thêm các bệnh khác. - Tỷ lệ tử vong cao: 0,02% ở các nước tiên tiến. 0,3 – 0,7% ở các nước đang phát triển. - Hiện nay nhờ có vacxin sởi được tiêm phòng rộng rãi nên tỷ lệ mắc bệnh và tử vong đã giảm nhiều. Đây là bệnh nằm trong “Chương trình tiêm chủng mở rộng” ở nước ta. IV. CƠ CHẾ BỆNH SINH VÀ MIỄN DỊCH BỆNH LÝ: 1. Cơ chế bệnh sinh - Virus sởi xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp. Tại đây, virus nhân lên ở tế bào biểu mô của đường hô hấp và ở các hạch bạch huyết lân cận. Sau đó, virus vào máu (nhiễm virus máu lần thứ nhất). Thời kì này tương ứng với thời kì nung bệnh. - Từ máu, theo các bạch cầu, virus đến các phủ tạng (phổi, lách, hạch, da…) gây tổn thương các cơ quan và các triệu chứng lâm sàng thời kì toàn phát. Ban ở da và niêm mạc chính là hiện tượng đào thải virus của cơ thể đã phản ứng miễn dịch bệnh lí. - Trong khoảng ngày thứ hai – thứ ba từ khi mọc ban, cơ thể mới sinh kháng thể. Kháng thể tăng lên thì virus càng bị loại khỏi máu. Bệnh chuyển sang thời kì lui bệnh. 2. Giải phẫu bệnh lí: Tổn thương giải phẫu điển hình là xuất hiện các tế bào khổng lồ (tế bào Hecht) đó là hợp bào chứa nhiều nhân và các hạt vùi (chứa virus ở trong) trong nhân và nguyên sinh chất. Tế bào khổng lồ xuất hiện ngày thứ 4 – thứ 5 trước mọc ban và kéo dài 3 – 4 ngày sau mọc ban. Các tế bào này tìm thấy ở tổ chức lympho, biểu mô niêm mạc khí quản, họng, phổi, ống tiêu hóa… 3. - Biểu hiện lâm sàng: 3.1. - Thể thông thường điển hình 3.1.1. - Nung bệnh: 8 – 11 ngày 3.1.2.- Khởi phát (giai đoạn viêm xuất tiết):3 – 4 ngày. - Sốt nhẹ hoặc vừa, về sau sốt cao. - Viêm xuất tiết mũi, họng, mắt: chảy nước mắt nước mũi, ho, viêm màng tiếp hợp, mắt có gỉ tèm nhèm, phù nề mi mắt. - Nội ban xuất hiện (ngày thứ hai): gọi là hạt Koplick, đó là các hạt trắng, nhỏ như đầu đinh ghim, từ vài nốt đến vài chục, vài trăm nốt mọc ở niêm mạc má (phía trong miệng, ngang răng hàm), xunh quanh hạt Koplick niêm mạc má thường có sung huyết. Các hạt Koplick chỉ tồn tại 24 – 48 giờ. Đây là dấu hiệu có giá trị chẩn đoán sớm và chắc chắn. - Hạch bạch huyết sưng. - Xét nghiệm ở giai đoạn này có bạch cầu tăng vừa, Neutro tăng. 3.1.3.- Toàn phát (giai đoạn phát ban) - Ban thường xuất hiện vào ngày thứ 4 – 6, ban dát sần, nhỏ hơi nổi gờ trên mặt da, giữa các ban là khoảng da lành. Ban mọc rải rác hay dính liền với nhau thành từng đám tròn 3 – 6mm. Ban mọc theo thứ tự: Ngày đầu: mọc ở sau tai, lan ra mặt. Ngày 2: lan xuống đến ngực, cẳng tay Ngày 3: lan đến lưng, chân Ban kéo dài 6 ngày rồi lặn theo thứ tự trên. - Ban mọc ở bên trong niêm mạc (nội ban): ở đường tiêu hóa gây rối loạn tiêu hóa, đi lỏng, ở phối gây viêm phế quản, ho. - Toàn thân: khi ban bắt đầu mọc, toàn thân bệnh nặng lên, sốt cao hơn, mệt hơn. Khi ban mọc đến chân nhiệt độ giảm dần, triệu chứng toàn thân giảm dần rồi hết. - Xét nghiệm ở giai đoạn này có bạch cầu giảm, neutro giảm, lympho tăng. 3.1.4. - Lui bệnh (giai đoạn ban bay) Thường vào ngày thứ 6 ban bắt đầu phai . Ban bay theo thứ tự từ mặt đến thân mình và các chi, để lại các nốt thâm có tróc da mỏng, mịn kiểu bụi phấn hồng hay vảy cám. Những chỗ da thâm của ban bay và chỗ da bình thường tạo nên màu da loang lổ gọi là dấu hiệu “vằn da hổ” đó là dấu hiệu để truy chẩn đoán. Toàn thân bệnh nhân hồi phục dần nếu không biến chứng. 3.2. - Các thể lâm sàng khác 3.2.1. -Thể theo tiên lượng 3.2.1.1. -Thể nhẹ - Không sốt hoặc sốt nhẹ - Viêm xuất tiết mũi họng nhẹ - Ban thưa, mờ, lặn nhanh. - Hay gặp ở trẻ dưới 6 tháng (còn miễn dịch mẹ). Chú ý: đánh giá tiên lượng sởi phải căn cứ chủ yếu vào hội chứng nhiễm khuẩn nhiễm độc toàn thân, không nên chỉ dựa vào ban, vì ban thưa có thể gặp ở thể nhẹ nhưng cũng có thể gặp ở thể nặng khi trẻ suy dinh dưỡng tính phản ứng yếu. Ngược lại ban mọc dầy không nhất thiết là nặng vì có thể gặp ở trẻ dinh dưỡng tốt, tính phản ứng mạnh. 3.2.1.2. Thể vừa Thể thông thường điểu hình (như mô tả trên) 3.2.1.3. Thể nặng (thể sởi ac tính) Các dấu hiệu ác tính thường xuất hiện nhanh chóng trong vài giờ trên những thể địa quá mẫn cảm, vào cuối giai đoạn khởi phát, trước lúc mọc ban. Thường có các triệu chứng sau: sốt cao vọt 39 – 41 độ C, tinh thần u ám, vật vã, mê sảng, hôn mê, co giật, mạch nhanh, yếu , huyết áp tụt, thở nhanh, môi tím tái, nôn, ỉa lỏng, đái ít, nước tiểu sậm , xuất huyết dưới da hay phủ tạng.. Tùy theo triệu chứng nào nổi bật, sẽ có: . Sởi ác tính thể xuất huyết: xuất huyết dưới da hoặc nội tạng. . Sởi ác tính thể phế quản – phổi: biểu hiện chủ yếu là suy hô hấp. . Sởi ác tính thể nhiễm độc nặng: sốt cao, vật vã, co giật mạnh, hôn mê, mạch nhanh nhỏ, huyết áp tụt. . Sởi ác tính thể tiêu chảy: rối loạn tiêu hóa nổi bật. . Sởi ác tính thể bụng cấp: giống viêm ruột thừa thường gặp ở trẻ từ 6 tháng đến 2 tuổi, trẻ suy dinh dưỡng hoặc còi xương, trẻ đang mắc các bệnh khác… 3.2.2. Thể bệnh theo thể địa - Sởi ở trẻ dưới 6 tháng thường nhẹ - Sởi ở trẻ 6 tháng – 2 tuổi: thường nặng - Sởi ở trẻ suy dinh dưỡng – còi xương: sởi thường không điển hình và nặng. - Sởi ở trẻ đã được gây miễn dịch bằng Gamma globulin hoặc vacxin thường nhẹ. - Sở ở phụ nữ mang thai: gây sẩy thai, dị dạng, đẻ non… - Sởi kết hợp với các bệnh nhiễm trùng khác như: ho gà, lao, bạch hầu,… làm bệnh nặng lên. V. CÁC BIẾN CHỨNG CỦA BỆNH: Biến chứng đường hô hấp Viêm thanh quản - Giai đoạn sớm, là do virus sởi xuất hiện ở giai đoạn khởi phát, giai đoạn đầu của mọc ban thường mất theo ban, hay có Croup giả, gây cơn khó thở do co thắt thanh quản. - Giai đoạn muộn: do bội nhiễm (hay gặp do tụ cầu, liên cầu, phế cầu…), xuất hiện sau mọc ban. Diễn biến thường nặng: sốt cao vọt lên, ho ông ổng, khàn tiếng, khó thở, tím tái. Viêm phế quản Thường do bội nhiễm, xuất hiện vào cuối thời kì mọc ban. Biểu hiện sốt , ho nhiều, nghe phổi có ran phế quản, bạch cầu tăng, neutro tăng, X quang có hình ảnh viêm phế quản. Viêm phế quản – phổi Do bội nhiễm, thường xuất hiện muộn sau mọc ban. Biểu hiện nặng: sốt cao khó thở, khám phổi có ran phế quản và ran nổ. X quang có hình ảnh phế quản phế viêm (nốt mờ rải rác 2 phổi). Bạch cầu tăng, neutro tăng, thường là nguyên nhân gây tử vong ở giai đoạn này trong bệnh sởi, nhất là ở trẻ nhỏ. Biến chứng thần kinh Viêm não – màng não – tủy cấp Là biến chứng nguy hiểm nhất gây tử vong và di chứng cao. Gặp ở 0,1 – 0,6% bệnh nhân sởi. Thường gặp ở trẻ lớn (tuổi đi học), vào tuần đầu của ban (ngày 3 – 6 của ban). Khởi phát đột ngột, sốt cao vọt co giật, rối loạn ý thức: u ám – hôn mê, liệt ½ người hoặc 1 chi, liệt dây thần kinh III, VII hay gặp hội chứng tháp – ngoại tháp, tiểu não, tiền đình… - Viêm màng não kiểu thanh dịch (do virus). - Viêm tủy: liệt 2 chi dưới, rối loạn cơ vòng. Cơ chế: có 2 giả thuyết, cho là phản ứng dị ứng hoặc là phản ứng miễn dịch bệnh lí. Viêm màng não - Viêm màng não thanh dịch do virus sởi - Viêm màng não mủ sau viêm tai do bội nhiễm. Viêm não chất trắng bán cấp xơ hóa(Van bogaert) Hay gặp ở tuổi 2 – 20 tuổi, xuất hiện muộn sau vài năm, điều này nói lên virus sởi có thể sống tiềm tàng nhiều năm trong cơ thể bệnh nhân có đáp ứng miễn dịch bất thường. Diến biến bán cấp từ vài tháng đến 1 năm. Bệnh nhân chết trong tình trạng tăng tương lực cơ và co cứng mất não. 3.3.3. Biến chứng đường tiêu hóa 3.3.3.1. Viêm niêm mạc miệng - Lúc đầu do virus sởi, thường hết cùng với ban. - Muộn thường do bội nhiễm Cam mã tấu (noma) Xuất hiện muộn, do bội nhiễm xoắn khuẩn Vincent là một loại vi khuẩn hoại thư gây loét niêm mạc miệng, lan sâu rộng vào xương hàm gây hoại tử niêm mạc, viêm xương, rụng răng, hơi thở hôi thối. Viêm ruột Do bội nhiễm các loại vi khuẩn như shigella, E. coli… Biến chứng tai – mũi – họng - Viêm mũi họng bội nhiễm - Viêm tai – viêm tai xương chũm. Biến chứng do suy giảm miễn dịch Dễ mắc thêm các bệnh khác như lao, bạch hầu, ho gà… VI. CHUẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT: Bệnh Rubella (hay bệnh sởi Đức) - Sốt nhẹ, viêm long đường hô hấp nhẹ, dấu hiệu nhiễm độc không rõ. - Ban dát sẩn dạng sởi nhưng thường nhỏ hơn, mọc thưa hơn và mọc sớm ngay từ ngày thứ 1 – 2, mọc cùng lúc, khi bay để lại vết thâm, không có hạt Koplick. - Hạch sau tai, chẩm sưng đau - Xét nghiệm máu: tăng tương bào (plasmoxit) - Chẩn đoán xác định bằng phản ứng ngăn ngưng kết hồng cầu. Bệnh do virus có phát ban khác(virus Adeno, ECHO, Coxsackie,…). Ban dị ứng Ban toàn thân không theo thứ tự, thường ngứa, có nguyên nhân dùng thuốc, thời tiết, thức ăn… VII. ĐIỀU TRỊ VÀ DỰ PHÒNG: Điều trị Chủ yếu là điều trị triệu chứng – săn sóc và nuôi dưỡng. - Hạ sốt: phương pháp vật lí, thuốc hạ sốt thông thường (Paracetamol). - An thần. - Thuốc ho, long đờm - Kháng histamin: Dimedron, Pipolphen. - Sát trùng mũi họng: nhỏ mắt nhỏ mũi bằng dung dịch Chloromycetin, Argyrol… - Kháng sinh chỉ dùng khi có bội nhiễm và dùng cho trẻ dưới 2 tuổi, và trẻ suy dinh dưỡng. - Khi có biến chứng: viêm thanh quản, viêm não, sởi ác tính thì dùng kháng sinh và corticoid. - Các biện pháp hồi sức tùy theo triệu chứng của bệnh nhân: hồi sức hô hấp khi có suy hô hấp (thở Oxy, hô hấp hỗ trợ…) hồi sức tim mạch… - Chế độ ăn uống tốt. Dự phòng - Gramma globulin 40mg/kg dùng phòng bệnh khẩn cấp cho trẻ suy dinh dưỡng, hoặc trẻ đang bị một bệnh khác… mà có tiếp xúc với trẻ bị sởi. - Vacxin sởi: vacxin sống, giảm độc lực dùng cho trẻ 6 – 9 tháng tuổi trở lên, có tác dụng bảo vệ cao. Vacxin sởi là một vacxin bắt buộc trong “Chương trình tiêm chủng mở rộng” ở nước ta hiện nay. Nhờ đó, hiện nay tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong do sởi đã giảm nhiều. (dựa theo tài liệu từ nguồn y tế cộng đồng)